Thế giới Kinh Bắc trong bài thơ Bên kia sông Đuống
Đề bài: Thế giới Kinh Bắc trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm.
“Bé buồn vì điều gì
Anh đưa em sang sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì…”.
Tiếng yêu tha thiết ấy ngân nga mãi trong lòng mỗi chúng ta. Những vần “Bên kia sông Đuống” như có một ma lực làm say đắm lòng người hơn nửa thế kỷ qua. Nó như chơi vơi với không gian và thời gian theo năm tháng, như thể dần dần tâm hồn ta bước vào một thế giới diệu kỳ của xứ Kinh Bắc, một vùng quê trù phú, giàu đẹp với truyền thống văn hóa nghệ thuật lâu đời, với vẻ đẹp cổ kính thật đặc sắc. tình yêu đáng nhớ.
Đã 3 năm xa quê, đêm nay giữa núi rừng khu Việt Bắc, đứa con nhìn “bên kia sông Đuống” mà “chín dạ đau”. Đất nước, quê hương “đổ lửa dữ dội”, lòng tôi “xót xa”, “tiếc nuối” khôn tả:
“Đứng bên này sông sao nhớ
Sao buồn như mất một bàn tay vậy?”
Nỗi đau, nỗi nhớ, sự đau đớn, tê tái của tâm hồn, như chết đi một phần cơ thể. Nhớ quê hương yêu dấu thường là nhớ về dòng sông thơ ấu cứ mãi trôi trong tâm hồn. Nỗi đau, nỗi nhớ anh muốn chia sẻ cùng em. Như vỗ về, như an ủi: “Em ơi sao em buồn – Anh đưa em sang sông Đuống”. Dòng sông Đuống “ngày xưa cát trắng phẳng lì” – bãi cát mịn màng, từng in dấu chân tuổi thơ, nay đã trở thành hoài niệm. Sông Đuống là hồn quê, là vẻ đẹp thơ mộng, hữu tình của thế giới Kinh Bắc từ bao đời nay. Dòng sông “nằm nghiêng” như đau đáu nỗi đau của người con xa quê đi kháng chiến. Mặt gương sông trong veo, phẳng lặng, “trôi đi”, như “lấp lánh” một màu trời, như trăng sao:
“Sông Đuống chảy xuôi”
Một đường lấp lánh
Nằm nghiêng một bên trong cuộc kháng chiến trường kỳ”.
Nhớ sông Đuống “xưa” mà “xót xa” sông Đuống trong khói lửa, tang tóc trong hiện tại:
“Có con cò trắng bay
Lướt qua sông Đuống về đâu”.
Còn đâu những con cò trắng “bay kêu” trên cánh đồng xanh, chỉ còn “cò trắng bay vút” qua sông xót xa đang “nằm nghiêng” trong lửa. Trong bài thơ, Hoàng Cầm đã 12 lần nhắc đến dòng sông Đuống thân yêu.
Dòng sông Đuống được nhà thơ nhắc đến ở cuối bài thơ là dòng sông Đuống của ngày mai, ngày chiến thắng, hội núi. Sông Đuống là quê hương, là hy vọng, là niềm tin, là niềm tự hào. Dòng sông Đuống là sức sống mãnh liệt, là hồn thiêng của quê hương và của Kinh Bắc muôn thuở:
“Vì mặt trời sắp mọc
Chân trời đã lộ ra
Dòng sông Đuống cuộn chảy
Hãy để nó được cuốn vào bể
Bao nhiêu tin đồn của kẻ thù … “
Nhớ quê hương là nhớ sông Đuống, dòng sông của tuổi thơ, nhớ Kinh Bắc một miền quê giàu đẹp. Một màu “xanh biếc”, một màu “sáng bừng” của ruộng mía, bờ dâu, ruộng ngô khoai ngút ngàn. Bức tranh quê với những gam màu tươi sáng, trải dài bên bờ sông Đuống hiền hòa đã trở thành một mảnh tâm hồn của người con xa quê. Màu xanh của nỗi nhớ, màu xanh của nỗi nhớ, màu xanh của sự ấm áp:
“Xanh bãi mía xanh bờ dâu
Ngô khoai rực rỡ”.
Nhớ về màu xanh của quê hương là nhớ về “mấy trăm năm mộng êm đềm”, nhớ về những thời thanh bình, êm đềm và hạnh phúc. Nhớ vị ngọt bùi của ngô ngọt, nhớ vị ngọt đậm đà của mía, nhớ sắc vàng của lụa lưu luyến nhớ thương. Bây giờ còn đâu “từ ngày kinh hoàng – Giặc kéo đến dữ dội”… Người con xa quê “nhớ”, “xót xa” nhìn quê hương:
“Đứng bên này sông sao nhớ
Sao buồn như mất một bàn tay vậy?”
Quê hương mẹ khe hở là gì? Quê hương của tôi là gì? Với nhà thơ Hoàng Cầm, đó là dòng sông Đuống, bãi cát trắng phẳng lì, và màu xanh của lúa, ngô, khoai. Đó là hương vị của quê, của “nếp thơm dẻo”, của “nét tươi”, của “sắc dân tộc” trên những bức tranh gà, lợn của các nghệ nhân dân gian Đông Hồ treo ngày Tết. Làm sao tôi có thể quên được hương vị, màu sắc quen thuộc của xứ Kinh Bắc yêu dấu? Hương cốm nồng, hương lúa nếp, hương cốm mới, những bức tranh Đông Hồ với “màu sắc dân tộc”, với “nét tươi” của nét tài hoa “sáng trên giấy” đã trở thành hồn quê thấm đượm. và lan rộng khắp khu vực. thương nhớ. Hương sắc đẹp đẽ ấy là chất riêng của Kinh Bắc. Người năm xưa đâu rồi? Sự ly tán, chia cắt trong khói lửa chiến tranh của quê hương hiện lên trên từng bức ảnh. Đã từng là giấc mơ êm ấm hạnh phúc. Bây giờ là đau đớn và khổ sở. Nỗi đau tinh thần như rỉ máu. Một vùng quê có lịch sử văn hóa lâu đời đang bị chà đạp và hủy hoại:
“Hai mẹ con đàn lợn âm dương
cách chia tay
Đám cưới chuột tưng bừng
Bây giờ anh đi đâu?”
Bên kia sông Đuống là các huyện Thuận Thành, huyện Gia Lương, huyện Lang Tài… phía nam Bắc Ninh xưa, là quê hương của nhà thơ Hoàng Cầm. Nhớ về quê hương “bên kia sông Đuống” là nhớ về một thế giới Kinh Bắc có bề dày truyền thống văn hóa, nghệ thuật. Nhớ hội trẩy hội Lim, hội Gióng, hội chùa Dâu, hát quan họ… đã đi vào ca dao, tục ngữ: “Mồng bảy hội Khảm, mồng tám hội Dâu, mồng chín hội Dâu. , hội Gióng khắp nơi”. Bạn có nhớ bài “Khúc tình ca qua cầu”:
“Dù ai đi đâu,
Thấy tháp chùa Dâu thì về”?
Nhớ “tứ thân, liền chị”, nhớ “tứ thân tứ tán” trong lễ hội đình đám. Muốn gửi tấm thiệp đen cho người thương may áo mới tết mà biết gửi cho ai bây giờ:
“Gửi ai may áo cho
Chuông chùa ngân vang, em ở đâu?”
“Giấc mơ hòa bình” trăm năm chỉ còn “thoáng qua” trong tâm trí tôi. Giặc đến “chó gặp bầy lưỡi lê dài rỉ máu”, quê hương chìm trong máu lửa: “Ruộng ta khô – Nhà ta cháy”. Cuộc sống bị hủy hoại đến “cạn kiệt”. Ngôi chùa cũ đã bị phá hủy. Tiếng chuông huyền diệu ngày xưa, giờ chỉ còn “nuốt” trong nỗi nhớ của những người xa quê. Sao không “nhớ”, sao không “hối”? Những kỉ niệm về quê hương, về miền văn hiến Kinh Bắc cứ nhức nhối, rỉ máu trong tâm hồn người con.
Nhớ về quê cha đất tổ là nhớ về những địa danh đã đi vào cổ tích, gắn liền với lễ hội mùa xuân tưng bừng, thể hiện “một khát vọng, một lối sống của ông cha” từ bao đời nay. Nhớ mãi, nhớ “núi Thiên Thai”, nhớ “chùa Bút Tháp”, nhớ “huyện Lang Tài”,…
Nhớ “Bên kia sông Đuống” là nhớ đến con người, nhớ đến một cộng đồng tế nhị trong ứng xử, tài hoa trong kinh doanh, thủy chung trong cuộc sống. Rất tốt bụng và ngây thơ, rất tài năng và giàu tình cảm. Rất khéo léo hoặc thông minh và giỏi làm. Chính họ đã tạo nên bản sắc văn hóa, tạo nên nét đẹp truyền thống của xứ Kinh Bắc. Chính họ là những người phải “thương, nhớ, xót xa cho một ai đó”. Là người con gái xinh đẹp bên cô dâu kén rể “Những cô gái cắn môi chỉ têm trầu”. Họ là những cô thôn nữ chợ quê, phố huyện duyên dáng, trìu mến, xinh đẹp và rạng rỡ “mỉm cười như mùa thu tỏa nắng”. Gái Kinh Bắc hẹn nhau trong ngày hội giữa sông:
“Tôi đang mặc yếm
Em mặc lụa hồng
Tôi đi dự lễ hội non sông
Cười yêu ánh xuân xanh.”
Người con gái Kinh Bắc hội tụ nhiều nét đẹp văn hóa truyền thống. Đó là những linh hồn Kinh Bắc xưa, là những phi tần, hoàng hậu, Ỷ Lan của các triều đại Lý, Trần, Lê,… Hình ảnh “môi cắn trầu”, “mặt sen” của những cô gái Kinh Bắc với thao thao bất tuyệt. thắt lưng, thắt lưng, tà váy buông xõa nơi cửa võng, xuất hiện trong hội Lim, hội chùa Dâu, nhưng quan họ lại được Hoàng Cầm nói đến với tất cả tình yêu. Vẻ đẹp tài hoa, lãng tử đa tình trong hồn thơ Hoàng Cầm được bộc lộ và thăng hoa qua những hình ảnh ấy, những vẻ đẹp ấy của xứ Kinh Bắc.
Nhớ về miền quê văn hiến lâu đời là nhớ “người già tóc bạc trắng – Trẻ em quần nâu sột soạt”. Nhớ những cô ươm tơ, “những cô dệt sợi – bán tơ màu”, khéo léo hay. Nhớ “thợ nhuộm – Đồng Tĩnh, Huê Cầu” đã đi vào ca dao bao đời nay:
“Ai về Đồng Tĩnh, Huê Cầu,
Đồng Tinh bán thuốc, Huê Cầu nhuốm màu đen tối.
Ai về chợ Thanh Lâm,
Mua cho tôi một chiếc áo sơ mi màu dền.”
(Dân gian)
Nhớ về “Bên kia sông Đuống”, nhà thơ nhớ đến những em nhỏ trong vùng bị chiếm phải trải qua những tháng ngày đói rét: “Ngày một bát cháo ngô – Đêm ríu rít dưới gầm giường tránh đạn”. Nhớ nhất, thương người mẹ già đang “gánh hàng rong” trên con đường mưa lạnh:
“Mẹ tôi đói và buồn
Đường trơn, mưa lạnh, tóc bạc trắng”.
Nhớ người mẹ già “mặt sáng như trăng” đón bộ đội về làng đánh giặc. Nhớ du kích làng đánh giặc mà vui:
“Gió đưa tiếng hát đến gần,
Đồn điền đánh giặc, dân quân cày bừa”.
Viết về quê hương, về tình yêu đất nước trong chiến tranh, thơ Hoàng Cầm có một giọng điệu riêng, ngọt ngào, thiết tha như dân ca Quan họ, ngọt ngào và say đắm lòng người. Cảnh vật và con người, cảnh sinh hoạt và lễ hội, dòng sông Đuống và núi Thiên Thai, màu xanh của mía, ngô, khoai, hương thơm nồng của nếp, tranh gà lợn nét “tươi”, các làng nghề truyền thống như: Hồ chợ phiên, chợ Tùy, bãi Trầm Chỉ, động Tĩnh, Huê Cầu, v.v… tất cả làm nên hồn quê, nét văn hóa giàu đẹp bản sắc của xứ Kinh Bắc. Nét đẹp truyền thống ấy được hội tụ trong những vần thơ “tươi nhạc và vần”, thể hiện chiều sâu của cảm xúc hoài niệm, tự hào, tiếc nuối, xót xa, tạo nên sức thẩm mỹ lay động tâm hồn con người.
“Bên kia sông Đuống” để lại trong lòng bạn đọc gần xa nhiều dư vị nồng nàn về một dòng sông thơ mộng, một vùng quê trù phú, một vùng văn hiến lâu đời. Đó là thế giới Kinh Bắc tiêu biểu cho nền văn hiến lâu đời của Đại Việt, để chúng ta yêu mến và tự hào.
Hoàng Cầm từng tâm sự về bài thơ “Bên kia sông Đuống”: “Hương vị dân tộc, cái kiều diễm, cái hư ảo của những làn điệu Quan họ đã thấm đẫm trong tâm hồn tôi từ thuở ấu thơ”. Đó là một hồn thơ tài hoa và lãng mạn. Truyền thống văn hiến phong phú của dân tộc đã tạo nên sức mạnh Việt Nam. Thế giới Kinh Bắc đã tạo nên một hương vị ngọt ngào và ấm áp trong thơ Hoàng Cầm. Một hồn quê, một tình quê…
Các bộ đề lớp 12 khác
Bạn thấy bài viết Thế giới Kinh Bắc trong bài thơ Bên kia sông Đuống có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Thế giới Kinh Bắc trong bài thơ Bên kia sông Đuống bên dưới để Trường THPT Kiến Thụy có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: thptphandinhphung.edu.vn của Trường THPT Kiến Thụy
Nhớ để nguồn bài viết này: Thế giới Kinh Bắc trong bài thơ Bên kia sông Đuống của website thptphandinhphung.edu.vn
Chuyên mục: Văn học
Qua bài viết trên, Đạo Tâm hy vọng với những thông tin đã chia sẻ trong bài viết “Thế giới Kinh Bắc trong bài thơ Bên kia sông Đuống❤️️”.có thể giúp bạn có thêm nhiều thông tin cũng như hiểu rõ hơn về chủ đề “Thế giới Kinh Bắc trong bài thơ Bên kia sông Đuống” [ ❤️️❤️️ ]”.