tìm hiểu cái hay của điệp ngữ Buồn trông trong Kiều ở lầu Ngưng Bích

Bạn đang xem: tìm hiểu cái hay của điệp ngữ Buồn trông trong Kiều ở lầu Ngưng Bích tại Trường THPT Kiến Thụy

Đề bài: Tìm hiểu vẻ đẹp của câu thơ ngụ ngôn “Buồn trông” trong truyện Kiều ở lầu Ngưng Bích, trích từ Truyện Kiều của Nguyễn Du.

Tìm hiểu vẻ đẹp của cụm từ “Buồn trông” trong Kiều ở lầu Ngưng Bích

I. Dàn ý tìm hiểu vẻ đẹp câu cửa miệng “Buồn trông” trong Kiều ở lầu Ngưng Bích (Chuẩn)

1. Mở bài

– Giới thiệu Truyện Kiều và đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” – Vẻ đẹp nội tâm của Nguyễn Du thể hiện ở 8 câu cuối với từ “Buồn trông”.

2. Cơ thể

– Bốn hình ảnh được xây dựng qua tám câu thơ, diễn tả tâm trạng của nàng Kiều.– Đều mở đầu bằng “buồn trông” → Nghe buồn, sầu. + Nỗi buồn của con người thấm vào cảnh vật. và suy tư sâu sắc về nỗi buồn của nàng.– Bức tranh thứ nhất: Con thuyền và cánh buồm: + Lâu Ngưng Bích nhìn về phía biển, Kiều bắt gặp cảnh “cửa nát chiều tàn”+ “chiều”: Đầu chiều → Buồn, nhớ nhà…(Còn tiếp)

>> Xem chi tiết Dàn ý để tìm hiểu vẻ đẹp của lối nói ám chỉ “Buồn trông” trong Kiều ở lầu Ngưng Bích tại đây.

II. Bài văn mẫu khám phá vẻ đẹp của truyện ngụ ngôn “Buồn trông” trong Kiều ở lầu Ngưng Bích (Chuẩn)

Trong tác phẩm Truyện Kiều có nhiều đoạn độc thoại nội tâm, diễn tả tâm trạng Thúy Kiều suốt mười lăm năm phiêu bạt xa xứ. Tuy nhiên, để nói đến một đoạn thơ miêu tả nội tâm đặc sắc nhất không thể không nhắc đến đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Đây là một trong những đoạn văn tả nhân vật hay nhất, đặc sắc nhất của Nguyễn Du, đặc biệt là 8 dòng cuối của bài thơ. Tất cả cái hay, cái đẹp, cái tài của Nguyễn Du đều được lưu giữ trong tám câu thơ này cùng với cụm từ “buồn trông”:

Buồn nhìn cửa nát chiều chiều Thuyền ai thấp thoáng xa xa, Buồn nhìn nước mới hoa trôi biết về đâu, Buồn nhìn cỏ buồn chân trời nước biếc, Buồn nhìn gió thổi rì rào và tiếng sóng vỗ vào chiếc ghế ngồi”.

Tám câu thơ trên tưởng như chỉ tả cảnh bên ngoài lầu Ngưng Bích, nhưng ngẫm lại, thực ra là tả tâm trạng con người, tâm trạng của Kiều.

Bốn bức tranh được xây dựng bằng tám câu thơ, mỗi bức tranh là một khung cảnh khác nhau nhưng mỗi bức tranh đều mở đầu bằng câu “Buồn trông”. Đọc mà sao thấy chạnh lòng, xót xa, thương tâm quá! Nỗi buồn ấy đang lắng đọng như chất chứa trong lòng người nên khi nhìn cảnh Kiều lại càng thấy buồn, buồn đến vô cùng, càng nhìn cảnh ấy lại càng buồn. Tâm trạng xót xa, đau khổ của Kiều đã thấm vào cảnh vật khiến nó nhuốm một màu thê lương như nàng bây giờ. Cảnh ấy thật hợp với lòng nàng hay sao mà nên!

Trước khi gặp biến gia đình, Kiều sống trong cảnh “Lặng lẽ mành rèm”, nàng buồn, nhưng nỗi buồn ấy chỉ là thoáng qua, là nỗi buồn của một cô gái trẻ. Nhưng giờ đây, trải qua bao biến cố, bao gian khổ, ngồi đây một mình chị nhận ra nỗi buồn đang ngấm vào tim gan, cho chị một nỗi buồn dai dẳng kéo dài cho đến tận thế. trước.

Biến cố bắt đầu tất cả bắt đầu khi nàng phải bán mình chuộc cha, rời xa mối tình đầu Kim Trọng, xa nhà, xa nhà, xa gia đình, rồi tủi nhục đưa vào nhà chứa, đánh đập. . bị lừa, bị đánh, tất cả cứ thế xảy đến với cô. Vậy tại sao cô không thể buồn? Nhưng nỗi buồn ấy cũng chỉ thỉnh thoảng đến rồi đi, bởi chị chưa kịp nguôi ngoai biến cố này thì biến cố khác lại ập đến. Đến bây giờ, ngồi lặng lẽ một mình, chị mới có dịp thấm thía nỗi buồn thân phận.

Thật là buồn vì ngay từ những dòng thơ đầu tiên, người ta đã thấy Kiều thơ thẩn một mình bên hiên lầu Ngưng Bích, ngắm nhìn cảnh vật xa xăm, khi bốn bề thật vắng lặng, hiu quạnh đến vô cùng. . Không gian ấy tràn ngập trong lòng Kiều một nỗi buồn khôn tả.

Nàng nhớ Kim Trọng, nhớ cha mẹ, nhớ nhà. Tất cả những nỗi nhớ ấy quyện với nỗi buồn của cô mới thấm thía làm sao. Và Nguyễn Du đã thật tinh tế khi gợi nỗi buồn của nàng bằng một từ thật giản dị, thật chân chất: “Buồn trông”. Vì buồn nên xem, nhưng càng xem lại càng thấy buồn. Hai từ ấy vang vọng trong lòng người mới đáng thương làm sao! Đến bây giờ, nhìn đâu cô cũng thấy một cảnh buồn.

Bức tranh đầu tiên hiện ra trước mắt chúng ta:

“Chiều buồn trông cửa bể, Thuyền ai căng buồm xa xa”

Nhìn ra cửa bể, mong cảnh ấy đem lại niềm vui nào đó cho em, nhưng lại thấy cảnh “biển chiều thu”. Chỉ nghe hai tiếng “chiều” cũng thấy có gì buồn lắm. Vì đó là lúc mặt trời sắp tắt, chỉ còn lại một chút ánh sáng trên mặt nước. Một vùng nước mênh mông làm choáng ngợp ánh nhìn, cứ hút tầm mắt ra xa, càng nhìn càng tưởng chừng như vô tận. Bên ngoài không có gì ngoài một vùng hoang vu hoang vắng khi bầu trời dần chuyển sang màn đêm. Tưởng chừng như không thấy gì nhưng Kiều lại thấy “thấp thoáng” đâu đó một chiếc thuyền với “cánh buồm xa”. Nếu như người ta thường thấy đoàn thuyền tấp nập, sôi động thì ở đây, Kiều chỉ thấy một con thuyền lẻ loi giữa biển khơi xa xăm. Con thuyền ấy thật mơ hồ, hiu quạnh, “thuyền ai”, Kiều tự hỏi, nó trôi dạt về đâu? Phải chăng cũng trôi đến vô cùng, trôi trong cô đơn lạc lõng như Kiều? Và con thuyền ấy cũng khuất dần về phía chân trời vì Kiều chỉ còn thấy cánh buồm “chập chờn” phía xa. “Chập chờn” – một từ khiến người ta cảm thấy nó quá mờ nhạt, chợt ẩn, chợt hiện, mơ hồ, như ảo ảnh của con người. Tâm trạng đã nặng nề bao nhiêu thì khung cảnh ấy lại càng khiến lòng cô thêm thấm thía, xót xa bấy nhiêu.

Quay mặt sang góc bên kia, cô muốn tìm một khung cảnh vui tươi hơn, nhưng:

“Tiếc nước mới rơi, hoa trôi, biết trôi về đâu”

Kiều chỉ muốn tìm một khoảnh khắc vui giữa nỗi u sầu bủa vây, nhưng ngoảnh đi ngoảnh lại, nàng vẫn chỉ bắt gặp những khung cảnh thê lương đến nao lòng.

Một dòng nước từ trên cao ầm ầm đổ xuống, nước chảy dữ dội, sôi sùng sục. Nó xoáy, xô đẩy, cuốn đi mọi bụi bặm, cành lá. Nhìn cảnh ấy, Kiều không khỏi xúc động, càng nhìn dòng nước ấy nàng càng xót xa. Cô chợt thấy một cánh hoa đang xoay mình trên dòng nước xiết, cánh hoa ấy thật mong manh, yếu ớt và bơ vơ giữa những dòng nước xoáy dữ dội. Phải chăng cánh hoa ấy cũng giống như số phận của cô bây giờ, rơi vào chốn tủi nhục, vào vòng xoáy, không thể thoát ra, cũng không biết “đi về đâu”. Cánh hoa ấy quá yếu ớt, rơi xuống dòng nước này không thể thoát ra được, lang thang không mục đích, chôn vùi giữa dòng đời. Từ “nhiều dấu” được Nguyễn Du khéo léo đưa vào câu thơ, đọc lên ta thấy một nỗi buồn khó tả. Cánh hoa ấy cứ bồng bềnh, “nhiều” gợi lên một nỗi buồn rất mơ hồ, buồn cho cánh hoa rơi giữa dòng nước dở hay buồn cho thân phận mình lênh đênh giữa cuộc đời rộng dài?

Hai lần ngoảnh lại giữa không gian vô định, hai lần Kiều bắt gặp những cảnh thật vàng son, thật buồn, như chính cuộc đời mình. Lần thứ ba anh ngoảnh mặt đi, bức tranh hiện trường càng thê thảm hơn:

“Buồn nhìn cỏ cây trời, mặt nước một màu xanh”

Như cụ Nguyễn Du cũng đã nói: “Người buồn có bao giờ vui” nên bây giờ nhìn quanh, cái nhìn mang một nét u sầu nên vẫn “buồn” mà “trông”. Lại một cảnh hiu quạnh, thê lương! Không còn màu xanh tươi của: “Cỏ non xanh tận chân trời” như những ngày còn ấm áp, giờ đây, Kiều chỉ thấy một “nội buồn”. Vẫn là thảm cỏ trải dài đến tận chân trời nhưng lại mang một màu sắc thật ảm đạm “buồn bã”, không chút sức sống. Một đồng cỏ mênh mông, không một bóng hoa, cây cối, nhà cửa, con người, thật đơn điệu, thật tẻ nhạt. Nhìn ra xa, tất cả cỏ cây đều úa vàng, khô héo, không còn chút sức sống mãnh liệt nào, hay tâm trạng của Kiều lúc này cũng giống như vậy, cùng một nỗi buồn, một nỗi buồn, một sự héo úa? Đồng cỏ mênh mông ấy chắc cũng giống tâm trạng người nhìn nó lúc này:

“chân trời mặt đất một màu xanh xanh”

Đất và trời nhường nhau tạo nên một màu “xanh ngắt”. “Xanh xanh” – không xanh hoàn toàn mà chỉ “xanh xanh”. Màu xanh ấy nhạt nhòa, xa xăm quá, khiến người nhìn thấy cô đơn, buồn bã. Nguyễn Du đã đưa vào bức tranh thứ ba này hai từ chỉ màu sắc liên tục trong hai câu thơ. Phải chăng ông muốn nhấn mạnh gam màu ảm đạm của bức tranh thứ ba mà Kiều đang nhìn?

Nhìn ba phía, mỗi bên là một cảnh tượng thật khiến lòng người xót xa vô cùng. Chỉ còn một phía cuối cùng, Kiều ngoảnh lại. Nếu như 3 bức tranh kia, nỗi buồn chỉ phảng phất, tăng dần theo cảnh vật, không hẳn là buồn, thì ở bức tranh này, nỗi buồn đó mới thực sự thấm thía:

“Buồn nghe gió hất mặt, tiếng sóng vây quanh ghế ngồi”.

nhường nhịn như ba bức tranh trên chỉ là cái nền, là sự chuẩn bị cho nỗi buồn bao trùm ở bức tranh thứ tư này.

Một vùng biển ăn sâu vào đất liền, bên ngoài là biển cả mênh mông, gió từ biển cuộn vào và hút sâu vào “lũ”, tạo nên âm thanh khủng khiếp. Nó kêu ầm ầm, run rẩy và cuộn trong bọt trắng. Sóng ở đây không hề tĩnh lặng mà đang gào thét, cuồng nộ, xô đẩy, cuốn phăng mọi thứ. “Bùm”, từ âm thanh mà khi đọc lên ta vẫn cảm nhận được sự dũng mãnh, cuồng nộ vô cùng của sóng biển. một cách kiên nhẫn như thể chúng ta vẫn có thể nghe thấy nó la hét ngay bên cạnh chúng ta, hết lớp này đến lớp khác, không ngừng nghỉ. Tiếng sóng trầm mặc như vây lấy Kiều. Nàng thấy mình không còn ngồi trong lầu Ngưng Bích “xuyên không” ấy nữa, mà đang ngồi giữa biển khơi, lắng nghe tiếng sóng vỗ quanh mình. Trong lòng cô bỗng dâng lên một nỗi lo lắng, xúc động, sợ hãi cho tương lai. Những làn sóng đó có phải là những làn sóng của thế giới bao quanh cô ấy, tâm hồn cô ấy, nhìn cô ấy với sự giận dữ? Hay đó cũng là lời Nguyễn Du muốn cảnh báo về số phận của người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh ấy?

Trong ba bức tranh trước, ta luôn thấy người và cảnh song hành với nhau. Tuy xuất hiện cùng nhau nhưng hoàn toàn tách biệt cho đến bức tranh thứ tư, con người và cảnh vật đã hòa vào nhau. Nỗi buồn của con người đã thấm vào tất cả cảnh vật, đẩy nó lên cao trào, đỉnh điểm. Đỉnh điểm của nỗi buồn có thể khiến người ta làm bất cứ điều gì để thoát khỏi cái bóng khủng khiếp của nó. Đây có lẽ là nguyên nhân khiến sau này Kiều dại dột nghe theo Chu Khanh và bị hắn lừa dối.

Khép lại bốn bức tranh, người đọc không khỏi ấn tượng với cụm từ “buồn trông”. Khi tâm trạng buồn bã, chán chường đến vô cùng, nhìn đâu cũng chỉ là ánh mắt u buồn. Điệp từ luôn được Nguyễn Du đặt ở đầu câu, sau đó là bốn bức tranh phong cảnh chứa đựng sự u ám, thê lương. Có thể nói, câu nói ám chỉ là từ để gợi mở nỗi lòng của Kiều, cũng là để mở ra những bức tranh tâm trạng của nàng, đồng thời cũng là để dự báo những giông bão của cuộc đời nàng phía trước.

Phải nói rằng để vẽ nên bức tranh tâm trạng này, không nhà thơ nào có thể làm tốt hơn Nguyễn Du. Những bức tranh thiên nhiên ấy thật hòa hợp với tâm trạng của nàng Kiều trong cơn bĩ cực. Đặc biệt là câu cửa miệng “buồn trông”. Cách ông thể hiện các sắc thái của thiên nhiên và tâm trạng con người thật đáng khâm phục. Nguyễn Du thực sự là nhà thơ có lối miêu tả nội tâm con người độc đáo và sâu sắc nhất.

—–HẾT——

Tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, bên cạnh bài viết Tìm hiểu vẻ đẹp của phép láy “Buồn trông” trong Kiều ở lầu Ngưng Bích, các em có thể tham khảo thêm các thông tin: tìm hiểu các đặc sắc Nghệ thuật đặc sắc trong 8 câu cuối đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, tìm hiểu nghệ thuật miêu tả tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, tìm hiểu tâm trạng của Kiều trong đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích, tìm hiểu 8 câu thơ cuối của đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích.

Bản quyền bài viết thuộc về trường THPT TP Sóc Trăng. Mọi sao chép đều là gian lận!

Nguồn chia sẻ: Trường Cmm.edu.vn (thptphandinhphung.edu.vn)

Bạn thấy bài viết tìm hiểu cái hay của điệp ngữ Buồn trông trong Kiều ở lầu Ngưng Bích có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về tìm hiểu cái hay của điệp ngữ Buồn trông trong Kiều ở lầu Ngưng Bích bên dưới để Trường THPT Kiến Thụy có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: thptphandinhphung.edu.vn của Trường THPT Kiến Thụy

Nhớ để nguồn bài viết này: tìm hiểu cái hay của điệp ngữ Buồn trông trong Kiều ở lầu Ngưng Bích của website thptphandinhphung.edu.vn

Chuyên mục: Văn học

Qua bài viết trên, Đạo Tâm hy vọng với những thông tin đã chia sẻ trong bài viết “tìm hiểu cái hay của điệp ngữ Buồn trông trong Kiều ở lầu Ngưng Bích❤️️”.có thể giúp bạn có thêm nhiều thông tin cũng như hiểu rõ hơn về chủ đề “tìm hiểu cái hay của điệp ngữ Buồn trông trong Kiều ở lầu Ngưng Bích” [ ❤️️❤️️ ]”.

Related Articles

Back to top button