tìm hiểu đề tài người nông dân và Chí Phèo
Đề bài: tìm hiểu về đề tài người nông dân và Chí Phèo
Bài văn mẫu về chủ đề người nông dân và Chí Phèo
Phân công:
1. Nhân vật nông dân trong truyện ngắn Nam Cao
Mỗi tác phẩm của nhà văn là một lời tố cáo chân thực, xúc động về cuộc đời đen tối, bi kịch của người nông dân.
Miền quê trong tác phẩm của Nam Cao là miền quê Việt Nam đói nghèo triền miên, nay đang cận kề thảm họa khủng khiếp năm 1945.
Cảnh chết đói: Lão Hạc ăn thịt chó mồi để tự sát cho khỏi chết đói. Thằng cu Phúc chết lặng lẽ trong một xó xỉnh ẩm thấp trước con mắt “ngu dại vì quá đói” của hai đứa con (Diệu Văn).
Cô Tí chết vì một bữa ăn quá no, một kiểu chết đói (Một bữa no).
Cảnh đám cưới chạy đói (Một đám cưới).
Một đám cưới của Hổ trong cảnh nghèo khó, không phương tiện đi lại, không quần áo, không cỗ bàn, đám cưới có 6 người, cả gia đình nhà gái và chú rể: “Cả bọn lang thang trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình lặng lẽ dẫn dắt. rủ nhau tìm chỗ ngủ”.
Biết bao câu chuyện buồn về người nông dân bị hành hạ nhục nhã quanh nạn đói (trẻ con không biết ăn thịt chó). Nghèo khổ từ ngày mẹ mất, Đánh chồng.
– Nam Cao quan tâm đến những người thấp cổ bé họng nhất, bị áp bức bất công nhất, chịu số phận hẩm hiu, bất hạnh nhất. Những người cố gắng như Bình Chúc “làm hết sức mà quanh năm vẫn nghèo, chỉ vì không có nổi một miếng ăn, ai giựt được thì xoay, ai nấy xoay xở”. . Như Chí Phèo bị cả xã hội ruồng bỏ ngay từ khi mới lọt lòng. Đó là Thị Nở, một người đàn bà không chồng, sinh ra trong một gia đình phong lưu, bị loài người xa lánh. Đó là một người phụ nữ Lợi, Cu Lo Lang Ray, người không được coi là con người. Đó là thân phận của những người sống vì nhà giàu, những con Tít, Cọp, Củ Phúc không bao giờ thỏa mãn nhưng công việc và những lời chửi bới thì thừa.
– Những người bị bắt nạt nhiều nhất có lẽ là những người phụ nữ trong xã hội; Đó là những cô dì Hảo (Dì Hảo), Như (Ở hiền) dịu dàng như ngụm nước mưa, cả đời chỉ biết yêu thương nhường nhịn nhưng cả đời chỉ gặp đắng cay chối từ. Đó là mụ Lơi (Lang Ray), 36 tuổi, vẫn khao khát chồng con, chỉ vì nghèo quá cả đời không sống nổi, “kể rằng người ta nuôi mình, mình chỉ biết nuôi mình, nuôi cho có. phục vụ mọi người, và những gì cô ấy có.” Chồng hay không chồng thì mặc”.
Trong xã hội ấy, thân phận của người phụ nữ là nô lệ, luôn bị chà đạp một cách tàn bạo, bất công, đôi khi họ còn là nạn nhân khốn khổ của chính những người mà họ phải tôn thờ. Chồng vũ phu, tham ăn uống, trừng phạt vợ dã man (Ở hiền, Dì Hảo, Đánh chồng, Con không được ăn thịt chó)
Bước vào thế giới của những người bị ức hiếp nhiều nhất, những người càng hiền lành càng lún sâu xuống bùn đen, Nam Cao đã vượt qua sự bất công khủng khiếp trong xã hội: ” trên đời này sao lại có nhiều bất công như thế?” . Đặt câu hỏi ấy trong “Ở hiền” một truyện ngắn có tính chất nghi vấn, “ở hiền gặp lành” cũng là vấn đề Nam Cao đặt ra trong hầu hết các tác phẩm của mình.
– Trong tác phẩm của Nam Cao, ta thường gặp những nhân vật nông dân xấu xí, thô lỗ, tàn ác, tủi nhục trong cuộc sống của họ. Điều đó khiến một số người nghi ngờ tính hiện thực và tính nhân văn của nhiều truyện Nam Cao. Đúng là trong cách diễn đạt một số truyện của Nam Cao có vẻ tự nhiên. Nhưng khác với những nhà văn coi quần chúng như một lũ súc vật – thú tính ngu xuẩn.
Ngược lại, từ vẻ bề ngoài xấu xí, đôi khi rất con vật của người nông dân, ông đã phát hiện ra tâm hồn con người. Nam Cao không chỉ nói về hoàn cảnh bị bóc lột về thể xác mà còn đi sâu vào nỗi đau khổ, tâm hồn con người bị hành hạ, nhân phẩm bị xâm phạm, giá trị con người bị tước đoạt.
“Bữa no” là câu chuyện bi thương, cay đắng về cái chết tủi nhục của một bà lão khốn khổ
“Đòn giật chồng” là câu chuyện về một người phụ nữ khác bị làm nhục, bị làm nhục và bị hành hạ dã man.
“Ngôn tình” là câu chuyện nhục nhã và bi đát nhất. Lang Ray, một kẻ nghèo hèn, rác rưởi, bị mọi người từ chối, đã đến với mụ Lôi – một người phụ nữ xấu xí cũng bị từ chối như tôi. Nhưng tình yêu đáng thương chính đáng của họ lại biến thành trò hề, trò chơi thú vị kích thích trí tò mò của hai người phụ nữ giàu có “chơi say sưa không kể suốt ngày”, “cười vui mà đánh lưng nhau”. giả…”. Cuối cùng, chúng dồn Lang Ray vào một tình thế vô cùng nhục nhã khiến Lang Ray chỉ còn cách treo cổ tự tử.
Bị tủi nhục, người nông dân nghèo chỉ còn biết từ bỏ cuộc đời như Lang Rẫy, hay từ bỏ lòng tự trọng, nhân phẩm của mình như Cu Lở, Chí Phèo.
Nam Cao đanh thép lên án cái xã hội chà đạp lên những người nông dân nhân hậu và mạnh dạn bảo vệ phẩm giá của họ ngay cả khi bị làm nhục một cách tàn nhẫn, bất công.
Trước Cách mạng tháng Tám, ít nhà văn nào hiểu sâu những ngõ khuất, những hi sinh thầm lặng nhưng cao cả trong lòng người nông dân như Nam Cao. Đó chính là điểm mạnh trong tài năng của nhà văn, nhưng trước hết là ở cái tâm “có ba chữ tài”, tức là ở tấm lòng đầy chiêm nghiệm của nhà văn đối với người nông dân nghèo khổ.
Liệu số phận người nông dân có thể thay đổi? Câu hỏi đó, Nam Cao cũng như tất cả các nhà văn hiện thực phê phán đều không trả lời được. Truyện của Nam Cao bao trùm một không khí buồn bã, ảm đạm. Đó là sự u ám của thực tại. Nhưng đó cũng là mảng tối trong tâm hồn Nam Cao. Dưới cái nhìn bi quan của nhà văn, cuộc đời là một sự bế tắc vô vọng, con người vật vã, đau khổ mà chẳng đi đến đâu. Người nông dân chỉ biết cúi đầu chịu đựng, đến khi không chịu nổi nữa, anh ta phát điên, hy sinh tính mạng để giành lấy miếng ăn. Nam Cao không đồng ý với thái độ nhẫn nhịn, cam chịu: “Cái nghề hiền lành nó ngu quá, đã chịu rồi thì đè đến không ngóc đầu lên được nữa” (Chí Phèo).
– khắc họa người nông dân Nam Cao quá thiên về tha hóa nặng nề, con người xấu xí đến quái dị, ý nghĩa thẩm mỹ rất mong manh.
– Trong sự bi quan, bế tắc, có lúc Nam Cao tưởng chừng như mất phương hướng, rơi vào khủng hoảng thì nhà văn dễ tiếp thu tư tưởng định mệnh, ma quái: “Nửa đêm” nhân vật chính đều là người, vật, điên cuồng trong một không khí rùng rợn.
2. Truyện ngắn “Chí Phèo”
Một. Chí Phèo lương thiện
Ở làng Vũ Đại, Chí Phèo còn hơn cả đồng loại, không cha mẹ, không họ hàng, không nhà cửa, không mảnh đất cắm dùi.
Thời thơ ấu trắng trợn, ông đi ở trong xưởng rồi đi ở nhờ nhà khác, cho đến khi còn là thanh niên làm ruộng cho Bá Kiến.
Sống cuộc sống lao động cần cù của ông lão nông dân khỏe mạnh, hiền lành và chất phác.
Có những ước mơ chân thật: một gia đình nhỏ làm cuốc mướn, vợ dệt vải. Trong xã hội cũ, ước mơ chỉ là ảo tưởng, đau khổ mới là hiện thực.
Chí Phèo là một thanh niên có tâm hồn đẹp: yêu – ghét, khinh – trọng rất rõ ràng. Anh ấy phân biệt tình yêu đích thực với dục vọng xấu xa. Bị gọi lên bóp chân, bóp đùi cho bà nội, anh chỉ thấy nhục chứ không thấy thương.
Khi tỉnh rượu, anh háo hức được trở lại xã hội loài người “anh khao khát sự lương thiện và muốn làm hòa với mọi người biết bao”.
Cuộc gặp Thị Nở như một tia chớp lóe lên trong những ngày dài đen tối. Sự chăm sóc giản dị ở Thị Nở, người đàn bà khốn khổ ấy đã khơi dậy, đánh thức và đánh thức bản chất lương thiện của cố nông Chí Phèo.
Lần đầu tiên sau nhiều năm, Chí Phèo nghe thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười của người đi chợ về, tiếng ghe chài gõ mõ đuổi cá. Đây là tiếng gọi tha thiết của cuộc đời đang kéo anh trở về với lương thiện.
b. Chí Phèo lưu manh
Cuộc đời lương thiện của Chí Phèo quá ngắn ngủi và kết thúc khi Bá Kiến tống hắn lên huyện rồi vào tù: Bảy tám năm xa cách, khi trở về, Chí hoàn toàn thay đổi.
Anh ta không còn là một nông dân, mà là một kẻ bị ruồng bỏ.
Nhà tù thực dân bắt người lương thiện rồi thả ra để bạo ngược, nhà tù đã xẻo thịt phần “người” của Chí, chỉ chừa lại phần “con”. Hiện tượng bi thảm đó có tính quy luật, phổ biến trong xã hội ăn thịt người. Trong truyện ngắn của Nam Cao, ta gặp những người họ hàng xa của Chí Phèo như Trạch Văn Dềnh, Lê Văn Ru (ông Thiên Lôi) “Nửa đêm”, Cu Lờ mỏ Tú”, Từ Lãng, Bình Chúc, Năm Nam. Thổ địa xa xôi tiền thân của Chí Phèo.
Những cơn say triền miên của Chí đã dẫn đến những hậu quả sau: say (chửi bới; say (ăn cắp; say rượu).
Chí Phèo sống một cuộc đời lam lũ, cũng giống như đám bạn nhậu của Chí “lúc nào cũng nghĩ đến màu xanh của bầu rượu cổ và màu vàng của cái đùi chó quay”.
Chí Phèo trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chí Phèo sống trần trụi, Chí Phèo phạm tội trong vô thức.
Bị Thị Nở từ chối, Chí Phèo rơi vào bi kịch không được làm người, muốn làm lại thế gian cũng không được chấp thuận. Trong cơn tuyệt vọng, Chí đã cầm dao đi trả thù.
Chí Phèo chưa có ý thức giai cấp rõ ràng, nhưng đó không phải là hành động trả thù bằng bản năng mù quáng. Chí Phèo đi tìm nguyên nhân phù hợp với trạng thái lơ mơ của Chí Phèo.
Chí Phèo không có ý định trả thù Bá Kiến ngay. Đầu tiên nghĩ đến bà Thị Nở. Có lẽ theo thói quen bước chân Chí đến thẳng nhà Bá Kiến, nhưng cũng chưa hẳn là quen chân mà sâu xa hơn, trong ý thức của người nông dân đã xuất hiện một nhân tố mới.
Hai chữ “lương thiện” thốt ra từ miệng một kẻ khốn khổ là cả một lời cầu xin, một sự oán hận và một sự vô vọng.
Chí Phèo trong cơn say đã lần ra manh mối của vấn đề. Chí Phèo hiểu rằng Bá Kiến đã tước đi quyền làm người lương thiện và khả năng trở lại làm người lương thiện của mình. Lời kêu gọi trở về với lương thiện có nội dung xã hội và ý nghĩa giai cấp. Nó như một tia sáng bừng lên xuyên qua cả bóng tối cực nhọc và đó cũng là lúc tỉnh táo và tỉnh táo nhất, vượt lên trên trạng thái bản năng tự nhiên. Chí Phèo muốn trở về là chính mình, trở về với bản chất vốn có của người nông dân sau bao năm dài xa lánh.
Hạn chế về mặt nội dung “Tre già măng mọc, thằng nọ chết thằng kia”.
Nhà văn không nhìn thấy khả năng thay đổi và làm chủ vận mệnh của người nông dân. Sự thức tỉnh của Chí Phèo chỉ dẫn đến một hành động khủng hoảng đầy bi kịch. Trong thế giới nông dân của nhà văn, nếu không phải là những kẻ hung dữ, là dã thú thì cũng là con sâu, con kiến, sống trong đau đớn sợ hãi đến tê liệt. Ngay cả khi đến Chí Phèo trước khi vào tù, tuy là con canh lành nhưng hắn bóp chân cho chị lúc lắc. Bình Sang nhát gan đến mức “ai mắng là tè ra quần”. Ở làng Vũ Đại không có lấy một gương mặt sáng sủa, sôi nổi. Chỉ có một khuôn mặt sọc dọc của Chí Phèo, khuôn mặt xấu xí “không giống mặt lợn” của Thị Nở, khuôn mặt bỉ ổi của lão Tử Lăng, của thầy cúng và con lợn hoán cải, của bà hàng rượu, của bà Thị KHÔNG.
Trong cái nhìn đầy chiêm nghiệm của Nam Cao về tầng lớp nông dân, thỉnh thoảng vẫn xen vào bộ mặt khinh khỉnh, cố tình trút mọi “mỉa mai công việc hóa trang” lên nhân vật Thị Nở, một bức tranh biếm họa quá phản cảm, ghê tởm. mất. Nam Cao, cũng như hầu hết các nhà văn hiện thực phê phán, không đạt được nhận thức cách mạng và cũng không có quan điểm giai cấp chính xác. Khi triết lý một cách bi quan: yếu thì người ta vẫn hiền. Muốn ác thì phải mạnh. Nhà văn đã làm mờ đi ranh giới giai cấp và vô tình bênh vực cho sự thống trị tội phạm mà nhà văn vừa lên án một cách mỉa mai.
——– Hết ——–
Tương tự, chúng tôi đã mang đến những gợi ý tìm hiểu đề tài hay và độc đáo về người nông dân và Chí Phèo. Bài sau, các em chuẩn bị cho phần Vì sao truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao được coi là kiệt tác? và cùng với Tìm hiểu tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở để hiểu rõ hơn về nội dung, ý nghĩa mà tác phẩm muốn gửi gắm.
Bản quyền bài viết thuộc về trường THPT TP Sóc Trăng. Mọi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: Trường Cmm.edu.vn (thptphandinhphung.edu.vn)
Bạn thấy bài viết tìm hiểu đề tài người nông dân và Chí Phèo có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về tìm hiểu đề tài người nông dân và Chí Phèo bên dưới để Trường THPT Kiến Thụy có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: thptphandinhphung.edu.vn của Trường THPT Kiến Thụy
Nhớ để nguồn bài viết này: tìm hiểu đề tài người nông dân và Chí Phèo của website thptphandinhphung.edu.vn
Chuyên mục: Văn học
Qua bài viết trên, Đạo Tâm hy vọng với những thông tin đã chia sẻ trong bài viết “tìm hiểu đề tài người nông dân và Chí Phèo❤️️”.có thể giúp bạn có thêm nhiều thông tin cũng như hiểu rõ hơn về chủ đề “tìm hiểu đề tài người nông dân và Chí Phèo” [ ❤️️❤️️ ]”.